Thành ngữ là gì? Các công bố khoa học về Thành ngữ
Thành ngữ là một cụm từ hoặc câu nói ngắn mang ý nghĩa đặc biệt, thường được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày của một cộng đồng. Thành ngữ thường được truyền đạ...
Thành ngữ là một cụm từ hoặc câu nói ngắn mang ý nghĩa đặc biệt, thường được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày của một cộng đồng. Thành ngữ thường được truyền đạt qua miệng và thể hiện tư tưởng, truyền thống, kinh nghiệm hay lời khuyên của người đi trước. Thành ngữ có thể truyền đạt một ý nghĩa sâu sắc và trí tuệ thông qua ngôn ngữ hình ảnh và tu từ.
Thành ngữ thường được sử dụng để truyền đạt những nguyên tắc, quy tắc, kinh nghiệm sống, lời khuyên, truyền thống và giá trị văn hóa của một cộng đồng. Chúng thường được sử dụng để tạo ra các hình ảnh sống động, mô tả, so sánh hoặc cho người nghe/nói hiểu một ý nghĩa nhanh chóng và dễ nhớ.
Một số ví dụ về thành ngữ phổ biến trong tiếng Việt bao gồm:
1. Cái khó ló cái khôn: Khi bạn gặp khó khăn, bạn sẽ học được những bài học quý giá.
2. Ước gì tôi có cánh: Thể hiện sự mong muốn hoặc khát khao mạnh mẽ.
3. Một giọt máu đào hơn ao nước lã: Thể hiện sức mạnh và giá trị của sự cống hiến và nỗ lực cá nhân.
4. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây: Thể hiện lòng biết ơn và nhận thức về sự giúp đỡ của người khác.
5. Nói như đúng như sách: Thể hiện sự chân thành và trung thực trong truyền đạt thông tin.
Thành ngữ có thể thay đổi theo văn hóa, địa phương và thời đại. Chúng là một phần quan trọng trong ngôn ngữ và văn hóa của một cộng đồng, giúp truyền đạt và truyền thống lâu đời qua các thế hệ.
Thành ngữ thường bao gồm một số yếu tố cụ thể như sau:
1. Ý nghĩa: Mỗi thành ngữ mang theo một ý nghĩa riêng, thường chứa đựng một thông điệp sâu sắc, ngắn gọn và dễ nhớ. Ý nghĩa này thường được truyền đạt qua ngôn ngữ hình ảnh, so sánh hoặc biểu đạt trực tiếp.
2. Tính trí tuệ: Thành ngữ thường chứa đựng trí tuệ thông qua truyền đạt tri thức, kinh nghiệm và nhận thức sâu sắc về cuộc sống. Chúng thể hiện tư duy, suy nghĩ và triết lý của người đi trước.
3. Tu từ và ngôn ngữ hình ảnh: Thành ngữ mang tính tượng trưng cao, sử dụng các từ ngữ, so sánh, thần thoại và các ví dụ hình ảnh để truyền đạt ý nghĩa. Điều này giúp tạo ra hình ảnh sống động và dễ nhớ trong tâm trí người nghe/nói.
4. Phổ biến trong cộng đồng: Thành ngữ thường được sử dụng và được hiểu rõ trong một cộng đồng cụ thể. Chúng là một phần không thể thiếu của ngôn ngữ và văn hóa địa phương.
5. Sử dụng trong mọi tình huống: Thành ngữ có thể được sử dụng trong nhiều tình huống khác nhau như hội thoại hàng ngày, văn bản, văn chương và diễn đạt tư duy.
Thành ngữ là một phần quan trọng của ngôn ngữ và văn hóa. Chúng giúp truyền tải tri thức, tư duy và giá trị xã hội của một cộng đồng và góp phần vào việc xây dựng và tôn vinh sự đa dạng ngôn ngữ và văn hóa trên thế giới.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thành ngữ":
Tế bào gốc trung mô người được cho là những tế bào đa năng, hiện diện trong tủy xương người trưởng thành, có khả năng sao chép như những tế bào chưa phân hóa và có tiềm năng phân hóa thành các dòng tế bào của mô trung mô, bao gồm xương, sụn, mỡ, gân, cơ và nhu mô tủy xương. Các tế bào có đặc điểm của tế bào gốc trung mô người đã được tách ra từ các mẫu tủy xương của những người tình nguyện. Những tế bào này biểu hiện một kiểu hình ổn định và vẫn duy trì dạng đơn lớp trong môi trường nuôi cấy in vitro. Những tế bào gốc trưởng thành này có thể được kích thích để phân hóa hoàn toàn thành các dòng tế bào mỡ, sụn hoặc xương. Các tế bào gốc cá thể đã được xác định và khi này được mở rộng thành các thuộc địa, chúng vẫn giữ nguyên tiềm năng đa dòng của mình.
Kỹ thuật điện phân đĩa đã được trình bày, bao gồm thảo luận về các biến số kỹ thuật với sự tham khảo đặc biệt đến việc phân tách các phân đoạn protein trong huyết thanh người bình thường.
Trong 15 năm qua, một số lượng lớn các nghiên cứu đã được tiến hành nhằm xác định các yếu tố góp phần vào sự thành công của hệ thống thông tin. Tuy nhiên, biến phụ thuộc trong những nghiên cứu này—thành công của hệ thống thông tin—vẫn là một khái niệm khó xác định. Các nhà nghiên cứu khác nhau đã tiếp cận các khía cạnh khác nhau của sự thành công, khiến cho việc so sánh trở nên khó khăn và viễn cảnh xây dựng một truyền thống tích lũy cho nghiên cứu hệ thống thông tin cũng trở nên khó khăn. Để tổ chức nghiên cứu đa dạng này, cũng như để trình bày một cái nhìn tích hợp hơn về khái niệm thành công của hệ thống thông tin, một phân loại toàn diện được giới thiệu. Phân loại này đề xuất sáu chiều kích hoặc danh mục chính của thành công hệ thống thông tin—CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG, CHẤT LƯỢNG THÔNG TIN, SỬ DỤNG, SỰ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI DÙNG, TÁC ĐỘNG CÁ NHÂN, và TÁC ĐỘNG TỔ CHỨC. Sử dụng các chiều kích này, cả các nghiên cứu khái niệm lẫn thực nghiệm được xem xét (tổng cộng có 180 bài báo được trích dẫn) và được tổ chức theo các chiều kích trong phân loại. Cuối cùng, nhiều khía cạnh của sự thành công của hệ thống thông tin được tập hợp lại thành một mô hình mô tả và các hàm ý cho nghiên cứu hệ thống thông tin trong tương lai được thảo luận.
Chúng tôi đã khảo sát gen prothrombin như một gen ứng cử viên cho huyết khối tĩnh mạch ở những bệnh nhân được chọn có tiền sử gia đình về thrombophilia tĩnh mạch đã được ghi nhận. Tất cả các exon và vùng 5′-UT và 3′-UT của gen prothrombin đã được phân tích bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase và giải trình tự trực tiếp ở 28 bệnh nhân. Ngoại trừ các vị trí đa hình đã biết, không phát hiện sự biến đổi nào trong các vùng mã hóa và vùng 5′-UT. Chỉ có một sự thay đổi nucleotide (chuyển từ G sang A) tại vị trí 20210 được xác định trong chuỗi của vùng 3′-UT. Mười tám phần trăm bệnh nhân có kiểu gen 20210 AG, so với 1% trong nhóm đối chứng khỏe mạnh (100 đối tượng). Trong một nghiên cứu trường hợp - đối chứng dựa trên dân số, allele A 20210 được xác định là một allele phổ biến (tần suất allele, 1.2%; khoảng tin cậy 95%, 0.5% đến 1.8%), làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tới gần ba lần (tỉ lệ odds, 2.8; khoảng tin cậy 95%, 1.4 đến 5.6). Nguy cơ huyết khối tăng ở mọi độ tuổi và giới tính. Một sự liên quan được tìm thấy giữa sự hiện diện của allele A 20210 và mức prothrombin cao. Phần lớn các cá nhân (87%) với allele A 20210 nằm trong tứ phân vị cao nhất của mức prothrombin huyết thanh (> 1.15 U/mL). Mức prothrombin cao cũng được phát hiện là một yếu tố nguy cơ cho huyết khối tĩnh mạch.
Béo phì hiện nay ảnh hưởng đến một trong năm trẻ em ở Hoa Kỳ. Sự phân biệt đối xử đối với trẻ em thừa cân bắt đầu từ sớm trong thời thơ ấu và trở nên tổ chức hóa theo thời gian. Bởi vì trẻ em béo phì có xu hướng cao hơn các bạn đồng trang lứa không thừa cân, họ thường bị nhìn nhận là trưởng thành hơn. Những kỳ vọng không thích hợp đó có thể có tác động bất lợi đến khả năng xã hội hóa của họ. Nhiều hệ quả tim mạch đặc trưng cho bệnh béo phì khởi phát ở người lớn là trước đó có những bất thường bắt đầu từ thời thơ ấu. Tăng lipit máu, tăng huyết áp và dung nạp glucose bất thường xảy ra với tần suất cao hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên béo phì. Mối quan hệ giữa các yếu tố nguy cơ tim mạch với mỡ nội tạng độc lập với tổng lượng mỡ cơ thể vẫn chưa rõ ràng. Ngưng thở khi ngủ, u giả não và bệnh Blount là những nguồn chính gây bệnh lý mà việc giảm cân nhanh chóng và duy trì là điều thiết yếu. Mặc dù có nhiều giai đoạn có nguy cơ cao xuất hiện trong thời thơ ấu, nhưng chưa rõ liệu béo phì khởi phát sớm trong thời thơ ấu có mang lại nguy cơ lớn hơn cho bệnh tật và tử vong ở người lớn hay không.
Béo phì hiện nay là bệnh dinh dưỡng phổ biến nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ. Mặc dù các bệnh lý liên quan đến béo phì xảy ra thường xuyên hơn ở người lớn, nhưng những hậu quả nghiêm trọng của béo phì cũng như các yếu tố trước đó của bệnh ở người lớn xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên béo phì. Trong bài đánh giá này, tôi xem xét các tác động bất lợi của béo phì ở trẻ em và thanh thiếu niên và cố gắng phác thảo các lĩnh vực cho nghiên cứu trong tương lai. Tôi xác định béo phì là chỉ số khối cơ thể lớn hơn 95 phần trăm dành cho trẻ em cùng độ tuổi và giới tính.
Dù thừa cân và béo phì ở trẻ em có liên quan đến rối loạn lipid máu, tăng insulin và cao huyết áp, hầu hết các nghiên cứu chỉ xem xét mức độ của những yếu tố nguy cơ này một cách riêng lẻ hoặc đã sử dụng các ngưỡng nội bộ (ví dụ, các phân vị) để phân loại thừa cân và những yếu tố nguy cơ.
Chúng tôi đã sử dụng các ngưỡng được lấy từ một số nghiên cứu quốc gia để xem xét mối quan hệ giữa thừa cân (chỉ số Quetelet, >95th percentile) với các mức độ yếu tố nguy cơ bất lợi và sự tập trung các yếu tố nguy cơ.
Mẫu nghiên cứu bao gồm 9167 trẻ em từ 5 đến 17 tuổi đã được khảo sát trong bảy nghiên cứu cắt ngang do Nghiên Cứu Tim Bogalusa thực hiện từ năm 1973 đến 1994.
Xấp xỉ 11% trẻ em được khảo sát được coi là thừa cân. Mặc dù mức độ lipid, insulin và huyết áp bất lợi không có sự biến đổi đáng kể với chỉ số Quetelet ở các mức <85th percentile, tỷ lệ xuất hiện các yếu tố nguy cơ tăng mạnh ở các mức cao hơn của chỉ số Quetelet. Trẻ em thừa cân có khả năng cao gấp 2.4 lần so với trẻ em có chỉ số Quetelet <85th percentile trong việc có mức cholesterol toàn phần cao. Tỷ số odds cho các liên kết khác là 2.4 (huyết áp tâm trương), 3.0 (cholesterol lipoprotein mật độ thấp), 3.4 (cholesterol lipoprotein mật độ cao), 4.5 (huyết áp tâm thu), 7.1 (triglycerides), và 12.6 (insulin lúc đói). Một số liên kết này khác biệt giữa người da trắng và người da đen, cũng như theo độ tuổi. Trong số 813 trẻ em thừa cân, 475 (58%) được phát hiện có ít nhất một yếu tố nguy cơ. Hơn nữa, việc sử dụng thừa cân như một công cụ sàng lọc có thể xác định được 50% trẻ em đã có hai hoặc nhiều yếu tố nguy cơ.
Bởi vì thừa cân có liên quan đến nhiều yếu tố nguy cơ ngay cả trong số trẻ nhỏ, điều đó có nghĩa là việc phòng ngừa và điều trị thành công béo phì ở trẻ em có thể giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người lớn.
Một dòng tế bào huyết học người (U‐937) với các đặc điểm ngoại lệ đã được phân lập từ một bệnh nhân mắc bệnh u lympho mô bào toàn thân. Hình thái của dòng tế bào này giống hệt với tế bào khối u trong dịch màng phổi từ đó dòng tế bào được chiết xuất. Kể từ khi virus Epstein‐Barr (EBV) mang các dòng tế bào lymphoblastoid diploid không liên quan đến dân số khối u thường được thiết lập in vitro từ các mẫu mô không phải Burkitt lymphoma, nhiều thông số đã được nghiên cứu để phân biệt U‐937 với các dòng tế bào như vậy: hình thái in vitro, đặc tính tăng trưởng, hóa ứng động tế bào, kiểu thụ thể bề mặt, sản xuất immunoglobulin, sản xuất lysozyme, sản xuất β2-microglobulin, sự hiện diện của bộ gen EBV và kiểu hình nhiễm sắc thể. Trong tất cả các khía cạnh này, U‐937 khác với các dòng tế bào lymphoblastoid mẫu. Xuất xứ histiocytic của dòng tế bào này đã được xác nhận bởi khả năng sản xuất lysozyme của nó và hoạt tính esterase mạnh (esterase naphtol AS‐D acetate bị ức chế bởi NaF) của các tế bào. Do đó, kết luận rằng U‐937 là một dòng tế bào histiocytic ác tính.
Vi sinh vật đường ruột của con người lên men các carbohydrate không thể tiêu hóa trong chế độ ăn thành axit béo chuỗi ngắn (SCFA). Các sản phẩm vi sinh này được cơ thể sử dụng, trong đó propionate và butyrate đặc biệt phát huy một loạt các chức năng có lợi cho sức khỏe. Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các con đường chuyển hóa mà vi sinh vật đường ruột sử dụng để sản xuất hai SCFA này từ carbohydrate trong chế độ ăn và từ amino acid do phân hủy protein tạo ra. Tổng quan này nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc trao đổi các chất chuyển hóa trung gian (đặc biệt là lactate, succinate và 1,2-propanediol) giữa các vi khuẩn đường ruột khác nhau. Sinh lý sinh thái, bao gồm các yêu cầu về sự phát triển và phản ứng với các yếu tố môi trường, của các vi khuẩn sản xuất propionate và butyrate chính được thảo luận liên quan đến việc điều chỉnh chế độ ăn uống của các chất chuyển hóa này. Việc hiểu rõ về quá trình chuyển hóa SCFA bởi vi sinh vật đường ruột là rất cần thiết để xây dựng các chiến lược hiệu quả nhằm tối ưu hóa nguồn cung SCFA cho cơ thể.
Chúng tôi báo cáo về việc phát triển và ứng dụng của một phương pháp kiểm tra nhanh để phát hiện và phân loại virus dengue. Các mồi oligonucleotide đồng thuận đã được thiết kế để gắn kết với bất kỳ trong bốn loại virus dengue nào và khuếch đại một sản phẩm 511-bp trong một phản ứng chuỗi polymerase sao chép ngược (PCR). Đầu tiên, chúng tôi đã tạo ra một bản sao cDNA của một phần của bộ gen virus trong một phản ứng sao chép ngược với sự hiện diện của mồi D2 và sau đó thực hiện một PCR tiêu chuẩn (35 chu kỳ biến tính nhiệt, gắn kết và kéo dài mồi) với sự bổ sung của mồi D1. Sản phẩm DNA sợi kép kết quả từ RT-PCR đã được phân loại bằng hai phương pháp: lai chấm của sản phẩm 511-bp đã được khuếch đại với các đầu dò đặc thù loại virus dengue hoặc một đợt PCR khuếch đại thứ hai (PCR lồng) với các mồi đặc thù theo loại, tạo ra sản phẩm DNA có kích thước duy nhất chẩn đoán được cho từng kiểu huyết thanh của virus dengue. Dữ liệu tích lũy đã cho thấy rằng virus dengue có thể được phát hiện và phân loại chính xác từ các mẫu huyết thanh người đang trong giai đoạn viremia.
Chúng tôi đã nghiên cứu tác động kết hợp của mức triglyceride và lipoprotein cholesterol nền đối với tỷ lệ xuất hiện các điểm cuối tim trong nhóm thử nghiệm (n = 4,081) của Nghiên cứu Tim mạch Helsinki, một thử nghiệm ngẫu nhiên kéo dài 5 năm về phòng ngừa bệnh mạch vành sơ cấp ở nam giới trung niên bị rối loạn lipid máu. Nguy cơ tương đối (RR) được tính toán bằng cách sử dụng mô hình mối nguy tỷ lệ Cox với kỹ thuật biến giả cho phép nghiên cứu đồng thời các tổ hợp phân nhóm từ nhóm giả dược và nhóm điều trị.
Trong nhóm giả dược (n = 2,045), tỷ lệ cholesterol lipoprotein mật độ thấp (LDL-C)/cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL-C) là chỉ số dự báo đơn lẻ tốt nhất cho các sự kiện tim mạch. Tỷ lệ này kết hợp với mức triglyceride huyết thanh đã tiết lộ một nhóm nguy cơ cao: các đối tượng có tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5 và triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l có RR là 3,8 (95% CI, 2,2-6,6) so với những người có tỷ lệ LDL-C/HDL-C nhỏ hơn hoặc bằng 5 và nồng độ triglyceride nhỏ hơn hoặc bằng 2,3 mmol/l. Ở những người có nồng độ triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l và tỷ lệ LDL-C/HDL-C nhỏ hơn hoặc bằng 5, RR gần bằng đơn vị (1,1), trong khi ở những người có mức triglyceride nhỏ hơn hoặc bằng 2,3 mmol/l và tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5, RR là 1,2. Nhóm có nguy cơ cao với tỷ lệ LDL-C/HDL-C lớn hơn 5 và mức triglyceride lớn hơn 2,3 mmol/l thu được nhiều lợi ích nhất từ điều trị với gemfibrozil, với tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành thấp hơn 71% so với nhóm giả dược tương ứng. Trong tất cả các phân nhóm khác, mức giảm tỷ lệ mắc bệnh CHD là nhỏ hơn đáng kể.
Nồng độ triglyceride huyết thanh có giá trị tiên lượng, cả trong việc đánh giá nguy cơ bệnh tim mạch vành và trong dự đoán hiệu quả của điều trị gemfibrozil, đặc biệt khi được sử dụng kết hợp với HDL-C và LDL-C.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10